Hằng năm cứ vào mùa mưa lũ, nhiều địa phương nước ta, nhất là khu vực miền núi phía Bắc hay miền Trung thường phải đối mặt với việc sạt lở đất, lũ quét, ngập úng…, kéo theo đó là những hậu quả về bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của người dân địa phương. Để kịp thời khắc phục và xử lý ngay từ ban đầu một số chứng bệnh thường gặp trong mùa mưa lũ, thuốc cổ truyền ở tuyến cơ sở, nhất là các vị thuốc sẵn có trong vườn nhà, hay tại địa phương, có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phòng và trị các chứng bệnh đó.
Trị cảm lạnh
Cảm lạnh hay còn gọi là cảm mạo phong hàn là bệnh thường gặp trong hoàn cảnh mưa, gió lạnh của bão tố, lũ lụt. Trước hết, có thể dự phòng khi đã bị trúng mưa, gió lạnh bằng cách sắc nước gừng tươi để uống, dùng 1 củ gừng tươi, khoảng 15 - 20g, rửa sạch, thái mỏng, thêm 100ml nước, đun sôi 20 phút, gạn ra, uống nóng. Có thể thêm ít đường, quấy đều cho dễ uống. Tùy theo số người cần uống, có thể tăng lượng gừng lên. Với trẻ em, uống lượng thích hợp tùy theo tuổi.
Lá ngải cứu tươi xào nóng với rượu chườm vào khớp bị đau sẽ giảm đau nhức.
Khi đã mắc cảm mạo phong hàn, người phát sốt, lạnh, thậm chí rét nhiều, đau đầu, ngạt mũi, ho..., trước hết là nấu nồi lá xông, gồm các loại lá chứa tinh dầu thơm: lá sả, bạc hà, lá chanh, kinh giới, tía tô, lá tre... Sau khi xông cho ra mồ hôi, uống một bát nước lá xông để thúc đẩy hết nguyên nhân gây cảm lạnh ra ngoài. Lau khô mồ hôi, đồng thời tránh gió lùa. Tiếp tục cho người bệnh ăn bát cháo nóng có hành tươi và lá tía tô. Đối với những người bị nhiễm cảm sâu hơn, kèm theo các triệu chứng rét nhiều, đau đầu dữ dội, ho nhiều, đờm nhiều... ngoài cách xông hơi, sẽ dùng các vị thuốc sau để sắc uống: kinh giới (hoặc kinh giới tuệ, ngọn mang hoa), tô diệp, bạc hà mỗi vị 12g; quế chi 8g; cúc hoa, cam thảo dây mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trước bữa ăn 1 giờ. Nếu kèm theo đau mình mẩy, đau cơ nhục nhiều, có thể dùng quế chi, bạch thược, đại táo mỗi vị 12g; cam thảo, sinh khương mỗi vị 6g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần trong ngày, trước bữa ăn 1 giờ. Uống nhiều thang cho đến khi hết các triệu chứng.
Đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy: mưa, gió, lụt lội, môi trường nước bị ô nhiễm do các chất hữu cơ phân hủy, rác rưởi, phân và xác súc vật... rất dễ gây ra các chứng này... Có thể dùng hoắc hương, tía tô mỗi vị 12g; vỏ quýt, bạc hà, gừng tươi, cam thảo dây mỗi vị 8g. Sắc uống, ngày một thang, trước bữa ăn. Hoặc hoắc hương, đại phúc bì, trần bì, thương truật, hậu phác, bạch chỉ, bạch linh, bán hạ chế, cát cánh, cam thảo mỗi vị 8g. Tất cả nghiền thành bột mịn, mỗi lần uống 10 - 12g với nước ấm, ngày uống 2 - 3 lần. Có thể uống tới khi hết các triệu chứng.
Đau bụng, đại tiện có máu: lá mơ tam thể, cỏ sữa, rau sam, cỏ nhọ nồi mỗi vị 12g; xuyên tâm liên 8g. Sắc uống trước bữa ăn, ngày một thang, chia 2 - 3 lần. Uống đến khi các triệu chứng thuyên giảm.
Trị nước ăn chân: Phải lội nước nhiều, nước lại bị ô nhiễm nên rất dễ bị nước ăn chân, chân bị ngứa, lở loét, nhất là các kẽ chân. Trước hết, rửa sạch nơi tổn thương (nên bằng nước đun sôi để nguội, thêm chút muối ăn). Sau đó, lau khô. Dùng lá rau sam tươi, vò nát, xát vào chỗ bị bệnh. Ngày làm nhiều lần. Có thể ngâm rửa bằng nước sắc xuyên tâm liên, hoặc vỏ núc nác (ngâm chân khi nước còn ấm), lau khô. Chấm bột mịn của hỗn hợp bột hoàng liên hay hoàng đằng với bột phèn phi và hàn the, đồng lượng.
Trị đau xương khớp, đau cơ
Cùng với mưa, lũ, gió lạnh, đau xương khớp, đau cơ cũng là bệnh hay gặp, nhất là ở những người đã có tiền sử mạn tính. Trước hết, có thể sử dụng một số lá thuốc tươi: ngải cứu, cúc tần, lá lốt, bưởi bung... thêm rượu, hoặc giấm... để chườm nóng vào nơi sưng đau. Đồng thời, có thể dùng rễ cỏ xước, rễ mò đỏ (hoặc mò trắng), hy thiêm, cành cây dâu mỗi vị 12g, sắc uống, ngày một thang. Uống liền nhiều thang, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.
GS.TS. Phạm Xuân Sinh